Thứ Sáu, 15 tháng 11, 2013

Nguyên tắc suy đoán vô tội - Tình hình áp dụng trong công tác xét xử ở Việt Nam

ĐHL - "Anh có quyền giữ im lặng. Bất cứ điều gì anh nói có thể và sẽ được sử dụng để chống lại anh trước toà”. Câu nói này được gọi là Miranda Warning (tạm dịch là Cảnh báo Miranda) và là câu nói “cửa miệng” của cảnh sát khi bắt giữ tội phạm trong những bộ phim hành động Hoa Kỳ. Tuy đơn giản, nhưng nó đã phản ánh bản chất giản đơn nhất của nguyên tắc: suy đoán vô tội.

Nguyên tắc suy đoán vô tội (presumption of innocence) được định nghĩa là nguyên tắc cơ bản nhất trong lĩnh vực Tố tụng hình sự (TTHS), một cá nhân không thể bị coi là có tội cho đến khi cơ quan công tố chứng minh được tội và không còn tồn tại bất cứ sự nghi ngờ cũng như chứng cứ nào chứng minh rằng bị cáo vô tội.  Điều này có nghĩa là nghĩa vụ chứng minh trong TTHS được đảm nhiệm bởi cơ quan công tố, và nếu cơ quan công tố không chứng minh được bị cáo có tội hoặc còn tồn tại bất cứ sự nghi vấn hay chứng cứ nào không củng cố cho sự chứng minh có tội thì bị cáo phải được tuyên vô tội. Nguyên tắc này nhấn mạnh rằng cơ quan công tố trong quá trình điều tra phải gánh vác nghĩa vụ chứng minh từng vấn đề một liên quan đến tội phạm và việc chứng minh đó phải không được để lại bất cứ một nghi ngờ nào và bị cáo không phải chịu trách nhiệm gì trong việc chứng minh. 

Suy đoán vô tội là một nguyên tắc có cội nguồn từ thời La Mã cổ đại khi vào thế kỷ thứ 6, hoàng đế La Mã Justinian đã ban hành một bản tóm lược luật La Mã được gọi là “Digest of Justinian”, trong đó một quy định về nguyên tắc chung liên quan đến chứng minh là: Ei incumbit probatio qui dicit, non qui negat – có nghiã “chứng minh là công việc thuộc về anh ta, người khẳng định, chứ không phải là người phủ định” . Sau đó, trong các triều đại La Mã, nguyên tắc này được áp dụng trong quá trình xét xử hình sự và bắt đầu khẳng định nghiã vụ chứng minh thuộc về bên buộc tội và một hệ quả tất yếu là bị cáo luôn được coi là vô tội. Tuy nhiên, suy đoán vô tội chỉ chính thức được xem như một nguyên tắc mang tính công cụ pháp luật bởi luật gia người Pháp Jean Lemoine nhằm ủng hộ cho một cách suy luận mang tính pháp lý rằng hầu hết mọi người không phải là tội phạm . Để đảm bảo cho phương thức này được thể hiện một cách triệt để trong hệ thống luật pháp, ba nguyên tắc cốt lõi được đặt ra để có thể áp dụng trong tất cả các phiên toà hình sự bao gồm:

1. Căn cứ vào những sự kiện có thật liên quan đến vụ án – cho dù việc phạm tội có xảy ra và bị cáo có tội hay không – cơ quan công tố phải hoàn toàn gánh vác nghĩa vụ chứng minh.

2. Căn cứ vào những sự kiện có thật liên quan đến vụ án, bị cáo không có bất kỳ nghĩa vụ chứng minh nào. Bị cáo không cần phải trình bày chứng cứ, gọi nhân chứng hay làm bất cứ điều gì để chứng minh mình vô tội và điều này không được xem là cơ sở để chống lại bị cáo.  

3. Toà án phải hoàn toàn dựa trên cơ sở là những chứng cứ được trình bày trước toà để dựa vào đó ra phán quyết và không được phép suy diễn theo hướng không tốt cho bị cáo chỉ vì bị cáo bị truy tố và cáo buộc bởi cơ quan công tố.

Suy đoán vô tội thật sự là một nguyên tắc “vàng” trong lĩnh vực TTHS, một thành tựu vĩ đại của hệ thống pháp luật thế giới trong việc bảo vệ quyền con người và nguyên tắc này đã được công nhận trong Tuyên ngôn Nhân quyền năm 1948 , Công ước quốc tế về Quyền chính trị, dân sự năm 1966 của Liên hiệp quốc . Nguyên tắc suy đoán vô tội được Việt Nam cam kết thực hiện với sự kiện Việt Nam gia nhập Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị ngày 24/9/1982. Tuy nhiên, trong hệ thống pháp luật Việt Nam, nguyên tắc suy đoán vô tội lại chưa được công nhận một cách chính thức mà tinh thần của nguyên tắc này chỉ được thể hiện tại Điều 72 cuả Hiến Pháp 1992 và Điều 9 Luật Tố tụng hình sự (LTTHS): “không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật”. Song, với các quy định hiện hành cũng như thực tiễn áp dụng của nước ta về TTHS, nguyên tắc suy đoán vô tội vẫn chưa thực sự được đảm bảo tuân thủ triệt để. 

Nguyên tắc đầu tiên cuả suy đoán vô tội đó là bên công tố, ở nước ta là Viện kiểm sát (VKS) phải gánh vác hoàn toàn nghĩa vụ chứng minh. Điều này có nghĩa là khi đưa vụ án ra xét xử, VKS phải đảm bảo rằng tất cả những chứng cứ buộc tội bao gồm nhân chứng và vật chứng phải được đảm bảo một cách đầy đủ, khách quan nhất và không để lại bất cứ sự nghi ngờ hay mâu thuẫn nào thì khi đó mới có đủ cơ sở để buộc tội. Đặc biệt là trong giai đoạn điều tra, thu thập chứng cứ, lấy lời khai, quyền lợi của nghi phạm, bị can phải hoàn toàn được đảm bảo như một công dân vô tội. Thế nhưng, vấn đề nằm ở chỗ trong quá trình điều tra cũng như công tố tại phiên toà, cơ quan điều tra cũng như VKS luôn tiến hành chứng minh, thu thập chứng cứ theo hướng suy luận có tội. 

Chứng cứ là những gì có thật, được thu thập theo trình tự, thủ tục luật định mà Cơ quan điều tra, VKS dùng làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi phạm tội . Điều này có nghĩa rằng bất cứ tài liệu, đồ vật, nhân chứng, biên bản giám định liên quan đến vụ án chỉ có thể trở thành chứng cứ khi được nộp và được các cơ quan tố tụng chấp nhận đưa vào hồ sơ. Hơn nữa, thông qua Kiểm sát viên, VKS có nhiệm vụ kiểm sát việc khởi tố, các hoạt động điều tra và việc lập hồ sơ vụ án . Do đó, hồ sơ vụ án khi đưa ra tòa thường có xu hướng thiên về chứng cứ buộc tội, thiếu chứng cứ gỡ tội vì VKS cũng như cơ quan điều tra là những chủ thể có quyền công nhận chứng cứ bao gồm những gì. Nếu trong trường hợp phát hiện có những chứng cứ mâu thuẫn, chưa rõ ràng, mang tính gỡ tội thì những người tham gia tố tụng khác như bị can hay luật sư bào chữa cũng không thể trình bày trước toà để đảm bảo quyền lợi cho mình vì chúng không được xem là chứng cứ nếu VKS hay cơ quan điều tra không công nhận. “Không có căn cứ”, “không có cơ sở xem xét” là kết luận quen thuộc của các tòa mỗi khi bác chứng cứ hay yêu cầu của luật sư, người tham gia tố tụng . Không những thế, khái niệm về vật chứng được định nghĩa là vật được dùng làm phương tiện, công cụ phạm tội, vật mang dấu vết tội phạm, vật là đối tượng của tội phạm cũng như tiền bạc và vật khác có giá trị chứng minh tội phạm và người phạm tội . Như thế, tác giả đặt vấn đề rằng những chứng cứ nhằm chứng minh cho sự vô tội của bị cáo được bản thân bị cáo hoặc luật sư bào chữa cung cấp có được xem là vật chứng không? 

Trong thực tiễn xét xử, liên quan đến giai đoạn thu thập, xác minh chứng cứ, Ông Trần Văn Độ, Phó Chánh án TAND Tối cao, đã phát biểu rằng: “Cơ quan điều tra, VKS là cơ quan buộc tội thì rõ ràng chứng cứ chủ yếu là buộc tội. Có ai cố đi tìm chứng cứ gỡ tội đâu, nếu có thì chẳng qua là ngẫu nhiên tìm thấy trong quá trình buộc tội. Chứng cứ gỡ tội phải là bên bị can, bị cáo, người bào chữa” . Từ đó, Phó Viện trưởng Viện Khoa học kiểm sát VKSND Tối cao Đỗ Văn Đương cũng thừa nhận  rằng với thực tế này thì quyền được suy đoán vô tội của bị cáo khó có thể được tôn trọng một cách thực sự.

Nguyên tắc thứ hai trong suy đoán vô tội là bị cáo hoàn toàn không có nghĩa vụ chứng minh. Tuy nhiên, khi thấy cần thiết, bị cáo có quyền đưa ra chứng cứ để chứng minh cho sự vô tội của mình. Từ đó, tác giả nhận thấy hạn chế đầu tiên của LTTHS nước ta là không có một quy định nào cho phép bị can, bị cáo được im lặng hoàn toàn trong giai đoạn tố tụng, và chắc chắn điều này đã tạo ra cơ hội cho những người tiến hành tố tụng vận dung sai nguyên tắc suy đoán vô tội. Trong phiên toà xét xử, nếu bị cáo không trả lời các câu hỏi thì Hội đồng xét xử (HĐXX), Kiểm sát viên, người bào chữa, tiếp tục hỏi những người khác và xem xét vật chứng, tài liệu có liên quan đến vụ án . Điều này đã gián tiếp công nhận quyền im lặng của bị cáo trước toà, nhưng trong giai đoạn tạm giữ, tạm giam thì không có quy định nào, kể cả gián tiếp, trao cho bị can quyền được im lặng. Không chỉ thế, Điều 71 LTTHS yêu cầu người bị bắt, tạm giữ trình bày về những tình tiết liên quan đến việc họ bị nghi ngờ thực hiện tội phạm. Điều này đã gián tiếp khẳng định rằng họ có nghĩa vụ phải khai báo những tình tiết liên quan và do đó vấn đề về quyền được im lặng của bị can thực sự là “một hạn chế lớn của pháp luật về bảo đảm quyền con người”.
  
Trong thực tiễn xét xử, với những quy định trên, Ths Đinh Thế Hưng bức xúc cho rằng thực tế, không hiếm trường hợp cơ quan tố tụng dùng nhục hình, mớm cung, ép cung, thậm chí cho rằng bị can, bị cáo không khai báo là ngoan cố chối tội và sẵn sàng xem xét theo hướng buộc tội . Bên cạnh đó, khi diễn ra phiên toà xét xử, sau khi đại diện VKS đọc xong bản cáo trạng thì câu hỏi đầu tiên của thẩm phán hỏi bị cáo thường là: “Anh có nghe rõ cáo trạng không? Cáo trạng truy tố anh về tội đó có đúng không?” . Nếu bị cáo trả lời là đúng thì lập tức việc xét hỏi chuyển theo hướng buộc tội nhưng nếu bị cáo trả lời không thì HĐXX lại hỏi bị cáo trả lời tại sao không đúng. Cách hỏi này hoàn toàn không đảm bảo nguyên tắc suy đoán vô tội - bị cáo có quyền không phải chứng minh cho sự vô tội của mình và trách nhiệm chứng minh thuộc về cơ quan tiến hành tố tụng.

Cuối cùng, nguyên tắc thứ ba là Toà án, với vai trò là cơ quan trung lập, phải đưa ra phán quyết hoàn toàn dựa trên cơ sở là những chứng cứ được trình bày trước toà. Thế nhưng, đây có lẽ là nguyên tắc quan trọng và cơ bản nhất không được thoả mãn trong quá trình thực thi công lý. Khoản 1, Điều 176 LTTHS quy định rằng, trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, sau khi nhận được hồ sơ vụ án, Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên toà có nhiệm vụ nghiên cứu hồ sơ. Điều này đã chi phối nguyên tắc suy đoán vô tội vì hồ sơ vụ án chủ yếu được lập bởi VKS mà VKS là cơ quan buộc tội vì thế mà những nội dung, chứng cứ được đề cập trong hồ sơ đa phần mang tính khẳng định rằng bị cáo có tội. Do đó, nếu quy định Chủ tọa phiên toà cũng như thành viên khác cuả HĐXX được nghiên cứu hồ sơ thì điều này đã vô tình định hình nên thiên kiến ban đầu cho HĐXX theo hướng là bị cáo có tội. Cũng phải thừa nhận một thực tế là, do tố tụng của ta là tố tụng thẩm vấn, chứ không phải là tố tụng tranh tụng, mọi diễn biến vụ án đã được “viết lại” bằng hồ sơ vụ án, khi đọc hồ sơ vụ án người tiến hành tố tụng đã bị chi phối bởi các tình tiết của vụ án được “tường thuật” mà các tình tiết này có thể là sự thật và cũng có thể không phải là sự thật, nhưng nói chung các tình tiết của vụ án được thu thập theo một trình tự do pháp luật quy định nên tư duy của người tiến hành tố tụng nước ta đã hằn vào tâm trí là: bị can, bị cáo là người có tội.

Bên cạnh đó, Điều 179 có quy định rằng Toà án có thể trả hồ sơ để điều tra bổ sung khi thấy còn thiếu những chứng cứ quan trọng mà không thể bổ sung tại phiên toà. Quy định này đã gián tiếp cho phép phiên toà xét xử sơ thẩm diễn ra theo kiểu “xử nháp” và cho thấy thành kiến về việc bị cáo có tội trong hoạt động chứng minh và đánh giá chứng cứ của Toà án rõ hơn là suy đoán vô tội. Điều này phải xuất phát từ nguyên tắc rằng trách nhiệm buộc tội thuộc về bên công tố, nếu không chứng minh được thì bị cáo không có tội và Toà án chỉ ra phán quyết dựa trên chứng cứ trong phiên toà. Do đó, Toà án thấy việc buộc tội cuả VKS chưa chặt chẽ và chưa chứng minh bị cáo có tội thì Toà án phải tuyên bố bị cáo không có tội chứ không phải buộc tội bị cáo đến cùng. Giải thích cho quy định này Phó Chánh án TAND Tối cao Trần Văn Độ lại cho rằng “không nên quá cực đoan” vì tòa ở vị trí trung tâm với nhiệm vụ xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật và bảo đảm tội phạm phải bị xử lý nghiêm minh chứ không thể theo hướng buộc tội được thì buộc, không buộc được thì thôi như hệ thống án lệ. Tác giả hoàn toàn không đồng ý với cách giải thích này vì vấn đề không phải là hệ thống án lệ hay không mà là nguyên tắc vô tội, một thành tựu vĩ đại cuả tư pháp nhân loại, có được áp dụng triệt để hay không.

Chúng ta không phủ nhận một thực tế rằng LTTHS 2003 đã có những quy định rất tiến bộ khi đảm bảo cho quyền lợi cuả bị can, bị cáo, người bị tạm giam, tạm giữ cũng như nghĩa vụ của những người tiến hành tố tụng trong việc đảm bảo các quyền lợi ấy. Thế nhưng, xét về tổng thể, nguyên tắc suy đoán vô tội nhìn chung vẫn chưa được đảm bảo một cách toàn diện trong những quy định pháp luật cũng như thực tiễn ứng dụng. Vì thế, trong phạm vi bài viết này, tác giả đề xuất một số kiến nghị nhằm củng cố việc áp dụng nguyên tắc suy đoán vô tội như sau: 

Thứ nhất, trong quá trình điều tra, thu thập chứng cứ, quy định về chứng cứ tại Điều 64 LTTHS nên bỏ quyền được quyết định về chứng cứ cuả cơ quan điều tra hay VKS mà chứng cứ sẽ được thu thập một cách độc lập, bình đẳng giữa bên buộc tội, gỡ tội và chỉ có tòa mới có thẩm quyền đánh giá, chấp nhận, sử dụng chứng cứ mà hai bên đưa ra. 

Thứ hai, quyền im lặng của người bị tình nghi, bị can, bị cáo trong mọi giai đoạn phải được ghi nhận như một nguyên tắc tố tụng chính thức và nhấn mạnh rõ quyền này sẽ không bị cản trở bởi người tiến hành tố tụng. 

Thứ ba, LTTHS cần quy định rõ, có thể giành hẳn thành một điều luật riêng, rằng HĐXX chỉ căn cứ vào kết quả tranh tụng công khai tại nơi xét xử, làm trọng tài việc tranh tụng của bên buộc tội và bên gỡ tội để ra bản án khách quan đúng luật định. Do đó, HĐXX chỉ nên được nghiên cứu nội dung vụ án trước khi mở phiên toà và vấn đề nghiên cứu chứng cứ trong hồ sơ vụ án có thể xem xét bãi bỏ từng bước và tiến đến việc bãi bỏ hoàn toàn. 

Thứ tư, theo quan điểm của tác giả, quy định về việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Toà án tại điều 179 LTTHS hiện hành cần được bãi bỏ để dảm bảo nguyên tắc suy đoán vô tội trong TTHS. Đồng thời, một điều luật khác sẽ nhấn mạnh rằng khi hồ sơ vụ án đã chuyển sang Toà án mà VKS vẫn giữ nguyên quan điểm buộc tội thì cho dù có thấy những thiếu sót về chứng cứ Toà án vẫn tiến hành xét xử và tuyên bị cáo không phạm tội với lý do bên buộc tội không chứng minh được hoặc chứng minh không đúng pháp luật về tội của bị cáo. Sau đó VKS nếu có thêm chứng cứ khác bổ sung thì có thể tiến hành buộc tội lại. 

Cuối cùng, nguyên tắc suy đoán vô tội phải được ghi nhận trong LTTHS như một nguyên tắc cơ bản nhất cuả hoạt động TTHS nhằm mục đích nhấn mạnh tầm quan trọng cuả nguyên tắc này cũng như nhắc nhở những người tiến hành tố tụng phải tuyệt đối tôn trọng.

Trên đây là những kiến nghị cuả tác giả, căn cứ vào những cơ sở cuả chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, nhằm giúp cho nguyên tắc suy đoán vô tội được áp dụng triệt để hơn. Qua bài viết này, tác giả hy vọng rằng quyền con người nói chung cũng như quyền công dân nói riêng sẽ được đảm bảo chặt chẽ hơn một khi nguyên tắc này được đề cao và tinh hoa cuả nó được nảy nở trong duy thức cuả những người tiến hành tố tụng để công dân không bị coi là những “tù nhân hờ”.

NGUYỄN ĐỨC NGUYÊN VỴ

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét