(TBKTSG Online) - Sáng 24-2 chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan,một thành viên tham gia thực hiện Báo cáo Việt Nam 2035, đã có buổi nói chuyện tại Trung tâm Nghiên cứu và Hỗ trợ doanh nghiệp (BSA) về những câu chuyện hậu trường liên quan đến quá trình thực hiện Báo cáo Việt Nam 2035. TBKTSG Online lược ghi.
Ý tưởng hình thành Báo cáo Việt Nam 2035
Trước khi Việt Nam có bản Báo cáo Việt Nam 2035 – Hướng tới thịnh vượng, sáng tạo, công bằng và dân chủ, ngay từ năm 2000 Malaysia đã có Báo cáo Malaysia 2020 hay như năm 2010, Trung Quốc phối hợp cùng Ngân hàng Thế giới (World Bank) thực hiện Báo cáo Trung Quốc 2030.
Với một quốc gia, một báo cáo mang tầm nhìn dài hạn 20 năm như vậy là điều vô cùng cần thiết. Từ góc nhìn như vậy, từ lâu chúng tôi đã có mong muốn làm một điều tương tự cho Việt Nam.
Vào giữa năm 2014, nhân dịp Chủ tịch Ngân hàng Thế giới Jim Yong Kim đến làm Việt Nam, đề xuất làm báo cáo đã được bàn đến và thống nhất thực hiện với sự nghiên cứu đóng góp từ cả hai phía: các chuyên gia World Bank và Việt Nam.
Rút kinh nghiệm từ trường hợp Trung Quốc, khi kết thúc quá trình làm việc, bản Báo cáo Trung Quốc 2030 có nội dung không hoàn toàn thống nhất giữa bản tiếng Trung và bản tiếng Anh, lần này hai bên Việt Nam và World Bank phối hợp chặt chẽ ngay từ đầu để thống nhất góc nhìn, nội dung trong mỗi vấn đề nghiên cứu.
Đầu tiên phía World Bank đưa ra bức tranh mang sắc hồng với thành tựu nền kinh tế Việt Nam đạt được, trong khi phía ban biên tập Việt Nam muốn đưa ra bức tranh thẳng thắng hơn, toàn diện hơn, nhìn nhận những mặt được và chưa được vì có rõ ràng như vậy thì mới không chủ quan, mới có cơ sở để thay đổi.
Ngay như tiêu đề báo cáo là Hướng tới thịnh vượng, sáng tạo, công bằng và dân chủ, phía World Bank đề nghị dùng từ “trách nhiệm giải trình – Accountability” thay cho từ dân chủ và ngay trong bản thảo cuối cùng của Báo cáo tổng quan cũng dùng từ Accountabiliy vì ngại nhạy cảm nhưng chúng tôi thuyết phục họ thay đổi bởi “trách nhiệm giải trình” chỉ là một phần của “dân chủ” và không thể thay thế hết ý nghĩa của từ này.
Theo trao đổi ban đầu, bản Báo cáo sẽ gồm 12 chương nhưng từ tháng 11-2014, hai bên đồng ý rút ngắn lại còn 7 chương, mỗi chương giao cho các chuyên gia riêng của hai bên phối hợp biên soạn. Kinh phí thực hiện được khoán riêng cho mỗi chương và giao cho người phụ trách thực hiện chương đó quyết định quyền sử dụng.
Thông điệp quan trọng nhất, xuyên suốt khắp báo cáo đó là phải cải cách thể chế nếu không muốn bị lạc hậu. Đó là lý do Báo cáo có một chương dành riêng nói về Cải cách thể chế và các chương còn lại ít nhiều đều có đề cập đến vấn đề này.
Bài toán của Phó thủ tướng Vũ Đức Đam
Trong quá trình thực hiện, chúng tôi nhận được câu hỏi của Phó thủ tướng Vũ Đức Đam là liệu chúng ta có thể đạt mực tăng trường 9% mỗi năm và duy trì liên tục trong 20 năm để hóa rồng?
Sau khi các chuyên gia World Bank và cả phía chúng tôi thực hiện chạy đủ các mô hình tính toán kinh tế thì câu trả lời là không thể.
Điều tốt nhất ngay khi chúng ta cải cách thể chế và nâng cao năng suất lao động thì cũng chỉ có thể được mức thu nhập trung bình bình quân đầu người hơn 7.000 đô la Mỹ (USD) hoặc 18.000 USD nếu tính theo sức mua tương đương, bằng Malaysia năm 2010.
Còn nếu không cải cách, dự báo thu nhập bình quân năm 2035 đạt tối đa 4.500 USD, hoặc 12.000 USD tính theo sức mua tương đương.
Điểm khuyết về ngành công nghiệp mũi nhọn
Theo bản Báo cáo, đến năm 2035 Việt Nam sẽ trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại hóa. Tuy vậy chúng tôi chỉ dừng ở mức đưa ra định nghĩa công nghiệp hóa là gì chứ không thể đề xuất đâu là ngành công nghiệp mũi nhọn để tập trung phát triển.
Ba tiêu chuẩn, theo báo cáo, khi nói về đất nước công nghiệp hóa là: tỷ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ chiếm từ 90% trong tổng GDP; tỷ lệ lực lượng lao động trong lĩnh vực công nghiệp – dịch vụ chiếm từ 75% và dân cư sống ở đô thị chiếm từ 55% trở lên.
Chúng tôi không tách riêng ngành dịch vụ ra khỏi công nghiệp. Tại nhiều quốc gia phát triển, tỷ trọng ngành dịch vụ còn cao hơn cả ngành công nghiệp.
Về ngành công nghiệp mũi nhọn, chúng tôi có đặt câu hỏi với các chuyên gia World Bank nhưng họ cũng trả lời rằng rất khó để Việt Nam chủ động lựa chọn bởi quyền lựa chọn thuộc về các quốc gia khác có trình độ phát triển cao hơn. Họ mới là người quyết định chọn quốc gia nào làm cứ điểm.
Do vậy, cái Việt Nam cần là chuẩn bị nhân lực, hạ tầng, cơ sở vật chất … để có thể được chọn làm cứ điểm từ các quốc gia khác.
Liên quan đến vấn đề này, chúng tôi có hỏi các chuyên gia của World Bank về trường hợp Samsung. Liệu câu chuyện điện thoại Samsung rồi sẽ ra sao?
Câu trả lời, theo các chuyên gia World Bank, là không thể nói trước được điều gì. Dĩ nhiên Samsung, phần họ, tự biết sẽ phải thay đổi để thích nghi với thế giới, và Việt Nam nên chuẩn bị thật tốt để họ tiếp tục chọn Việt Nam làm cứ điểm đặt các cơ sở sản xuất, trung tâm nghiên cứu.
Tuy nhiên tin vui là, ở một khía cạnh nào đó, chúng ta đáp ứng tốt yêu cầu của Samsung. Tôi từng nói chuyện với một vị quản lý cấp cao của Samsung tại Việt Nam và được biết ban đầu, tại Hà Nội, Samsung có 300 kỹ sư người Việt thì nay con số này đã đạt 2.000 kỹ sư. Chính số lượng kỹ sư này mới là yếu tố quan trọng. Chất lượng và giá nhân lực nằm ở đây chứ không phải con số hàng vạn công nhân.
Thế sao Samsung ít đề cập đến số kỹ sư mà hay nói nhiều đến con số hàng vạn nhân công khi tiếp xúc với công chúng, truyền thông? Đơn giản vì họ nói những gì Việt Nam thích nghe.
Nông nghiệp: Ít đi để nhiều hơn
Đầu tiên, câu chuyện nông nghiệp sẽ được viết riêng thành một chương nhưng cuối cùng phải rút gọn thành một phần trong chương Kinh tế.
Tuy vậy, nội dung nghiên cứu chuyên sâu về nông nghiệp sẽ được tận dụng để đưa về báo cáo hàng năm của World Bank và chúng ta có thể tham khảo sau.
Khuyến nghị chính trong câu chuyện nông nghiệp là phải gắn với thương mại hóa và hiện đại hóa. Gắn với thương mại hóa thì phải đáp ứng nhu cầu, yêu cầu từ thị trường. Muốn vậy phải biết ít đi để nhiều hơn. Ít đi ở đây là ít đi sự can thiệp của Nhà nước, ít đi một số chủng loại nông sản không có khả năng cạnh tranh để tập trung vào những nông sản khác, qua đó đạt được nhiều hơn về giá trị.
Bản Báo cáo Việt Nam 2035 được công bố vào sáng hôm qua, 23-2, mới chỉ là bản báo cáo tổng quan (Overview). Trong khoảng một tuần tới, chúng tôi sẽ bổ sung thêm để hoàn chỉnh bản báo cáo này.
Trong quá trình thực hiện, chúng tôi nhận được nhiều hỗ trợ qua các báo cáo đầu vào từ các chuyên gia trong nước, quốc tế và đặc biệt có cả bài tham vấn từ nhóm các nhà nghiên cứu Harvard. Đây đều là những tài liệu quý nhưng chúng tôi không thể đưa hết vào bản báo cáo được. Tuy vậy, chúng tôi sẽ cố gắng để có thể đưa những tài liệu báo cáo đầu vào, những bài tham vấn đến cộng đồng.
***
Cách duy nhất là tăng năng suất lao động
Chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan nhấn mạnh trong buổi nói chuyện với các phóng viên tại TPHCM hôm nay rằng muốn đạt được mức thu nhập bình quân đầu người ở mức trung bình – cao của thế giới là hơn 7.000 đô la Mỹ/người/ năm (15.000 – 18.000 đô la Mỹ tính theo sức mua tương đương) vào năm 2035, Việt Nam không còn cách nào khác là phải tăng năng suất lao động.
Bà Phạm Chi Lan nói rằng, nếu đến 2035, thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam đạt được mức hơn 7.000 đô la Mỹ như kỳ vọng mà Báo cáo Việt Nam 2035 đề ra thì cũng chỉ mới bằng thu nhập bình quân của người dân Malaysia vào năm 2010.
Và muốn đạt được vậy thì năng suất lao động phải tăng để đóng góp 92% trong tăng trưởng kinh tế. “Nếu năng suất lao động không tăng thì sẽ chắc chắn sẽ không thể có mức thu nhập bình quân kể trên”, bà Lan khẳng định.
Lý do, theo chuyên gia Phạm Chi Lan, nằm ở chỗ, các yếu tố khác đẩy kinh tế tăng trưởng là vốn, số lượng lao động… như bao năm qua, đến nay đều đã hết. Bà Lan nói: “Các khoản viện trợ ODA không còn, lao động không thể tăng thêm vì dân số Việt Nam đang già hóa. Do đó, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam không có cách nào đạt được nếu không tăng năng suất lao động”.
Cộng với sức ép đó, theo chuyên gia Phạm Chi Lan, còn có bối cảnh hội nhập, cạnh tranh sau khi Việt Nam mở cửa thị trường sau khi những hiệp định thương mại được ký kết.
Trong Báo cáo Việt Nam 2035, các chuyên gia khuyến nghị hàng loạt giải pháp để tăng năng suất lao động, hướng đến mục tiêu tăng trưởng kinh tế, tăng thu nhập bình quân đầu người. Cụ thể là nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, gắn liền với công tác giáo dục, đào tạo; ứng dụng công nghệ mới vào sản xuất và quản trị doanh nghiệp; chuyển dịch cơ cấu lao động giữa các ngành; doanh nghiệp phải tham gia được chuỗi giá trị toàn cầu...
Minh Tâm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét